Đặc điểm Cừu_Columbia

Một con cừu đực trưởng thành nặng khoảng 275 và 400 lb (125 và 181 kg), trong khi cừu nặng khoảng 175 và 300 lb (79–136 kg). Một đơn vị lông cừu trung bình từ một con cừu cái nặng 10-16 lb (4,5-7,3 kg) với sản lượng 45-55%. Chiều dài chủ yếu của len khoảng 3,5-5 trong (8,9-12,7 cm). Len được phân loại là len trung bình. Len nhau 31,0-24,0 micron.

Một cá thể lai có thể còn có một ưu thế lai nữa nếu con mẹ là cá thể lai. Loại ưu thế lai này được gọi là ưu thế lai từ mẹ (Maternal Hybrid Vigor (HVM). Cả HVI và HVM đều đã ảnh hưởng và làm cho năng suất của con lai tăng lên. Ưu thế lai cả HVI, HVM và ảnh hưởng bổ sung của giống là những công cụ mạnh để tăng năng suất trong chăn nuôi cừu, lai là một giải pháp giúp cải thiện năng suất thịt, khả năng sinh sản và len ở cừu. Khi đánh giá cừu cái về khả năng sản xuất thịt và lông trên 1 kg khối lượng cơ thể, cừu lai cừu Columbia × cừu Southdown × cừu Corriedale có các giá trị này cao nhất.

Cừu không nuôi vỗ béo thì toàn bộ đầu, da, chân, lông, tiết có tỷ lệ phần trăm thấp hơn so với những cừu đã được vỗ béo.Các giá trị khác nhau cho rằng có thể là do sự khác biệt về giống cừu. Tỷ lệ da, lông, đầu, chân, tiết của cừu đực, cái ở các nhóm tuổi khác nhau được đánh giá thấp hơn so với kết quả của cho các giống cừu Rambouillet, cừu Targhee, cừu Columbia và Cừu Polypay.

Trán phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt. Mô mỡ dưới da của chúng phát triển tốt hơn dê và ngược lại ở các cơ bên trong của chúng có ít tích lũy mỡ hơn dê. Chính vì vậy, thịt chúng nhiều nạc hơn thịt dê.